Ngài học đạo với Tuệ Trung Thượng Sĩ, được Thượng Sĩ hết lòng hướng dẫn và trao đổi những yếu nghĩa Thiền tông. Ngài tâm đắc nhất là câu: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (Quan sát lại chính mình đó là bổn phận, không do người khác làm được) và tôn thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm Thầy. Ngài thường tới lui chùa Tư Phúc trong kinh thành để tụng kinh, tọa thiền, lễ bái Tam bảo.
Năm 21 tuổi (1279), Ngài được Trần Thánh Tông truyền ngôi, trị vì thiên hạ Đại Việt, lấy đức trị vì, dân chúng an cư lạc nghiệp, lấy niên hiệu là Thiệu Bảo.
Năm 1282, Ngài chủ trì Hội nghị Bình Than để lấy ý kiến toàn dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Năm 1284, trước khi cuộc chiến tranh diễn ra, Ngài chủ trì Hội nghị Diên Hồng, lấy ý kiến các vị Bô lão, những người đứng đầu các Bộ lạc. Toàn thể hội nghị già trẻ, gái trai đều một lòng tung hô quyết chiến.Năm 1285, với tinh thần bảo vệ dân tộc, Tổ quốc của toàn dân, Ngãi đã lãnh đạo và chiến thắng cuộc xâm lăng Nguyên – Mông lần thứ nhất.
Với ý đồ tiến vào Phương Nam, tiến chiếm Chiêm Thành, làm bàn đạp thôn tính Đại Việt, Trần Nhân Tông lại một lần nữa lãnh đạo cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, với sự quyết tâm chiến thắng của toàn quân, toàn dân, Ngài đã chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ hai năm 1288. Cảm hứng trước sự chiến thắng của dân tộc, Ngài đã làm hai câu thơ lưu lại:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông muôn thuở vững âu vàng”.
Năm 41 tuổi (1293), Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. Năm 1294, Ngài cầm quân sang chinh phạt Ai Lao, giữ yên bờ cõi và làm cho nước Triệu Voi tiếp tục thần phục Đại Việt.
Sau khi chinh phạt Ai Lao, Ngài trở về Hành cung Vũ Lâm – Ninh Bình, cầu Quốc sư Huệ Tuệ làm lễ Xuất gia, tập sự tu hành tại đây một thời gian. Năm 1299. Ngài quyết tâm trở lại thăm Kinh sư lần cuối, rồi đi thẳng lên núi Yên Tử – Quảng Ninnh quyết chí tu hành, tham thiền nhập định, lấy tên là “Hương Vân Đại Đầu Đà” và độ Đồng Kiên Cương làm đệ tử và ban pháp hiệu là Pháp Loa.
Năm 1307, Ngài truyền Y Bát lại cho Tôn giả Pháp Loa, lên làm Sơ Tổ Trúc Lâm và Pháp Loa là Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Trong thời gian đó, Ngài thường lui tới chùa Báo Ân Siêu Loại, Sùng Nghiêm Hải Duơng, Vĩnh Nghiêm Lạng Giang, chùa Từ Lâm, chùa Quỳnh Lâm Đông Triều để giảng kinh, thuyết pháp và chứng minh các Lễ hội…
Sau khi truyền Y Bát cho Tôn giả Pháp Loa, Ngài tập trung biên soạn Kinh sách và Ngữ lục. Qua đó, Ngài đã để lại cho đàn hậu học một số tài liệu vô cùng quý báu như: Trần Nhân Tôn thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Trung hưng Thực Lục, Truyền Đăng Lục v.v….
Theo sử cũ, Ngài xả báo an tường, thâu thần thị tịch ngày 01/11/Mậu Thân (1308). Thọ thế 51 năm tại am Ngọa Vân – Đông Triều – Quảng Ninh. Vua Trần Anh Tông cung thỉnh nhục thân Ngài về kinh đô Thăng Long cử hành Quốc tang trong thời gian hai tuần. Sau đó, Vua quan, quần thần, văn võ bá quan, đệ tử Pháp Loa, Bảo Sát và chúng Tăng trong nước cử hành Lễ Trà tỳ.
Sau khi thu nhặt Xá lợi, Xá lợi được chia làm hai phần, một phần xây tháp thờ ở Lăng Quý Đức phủ Long Hưng – Thái Bình; một phần xây tháp tôn thờ tại chùa Vân Yên – Yên Tử, Quảng Ninh, lấy hiệu là Huệ Quang Kim Tháp, dâng Thánh hiệu: Đại Thánh Trần Triều, Trúc Lâm Đầu Đà, Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Phật Tổ.”
Do đó, dù thời gian có đi qua hơn 700 năm, không gian có biến dịch, song công đức, đạo nghiệp của Tổ sư vẫn còn sống mãi trong trang sử vàng son của dân tộc, của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp hộ quốc an dân, đoàn kết hòa hợp toàn dân, phát huy Đạo pháp trong thời đại ngày nay và mãi mãi về sau. GHPGVN hôm nay nguyện tiếp tục sự nghiệp quang huy của Tổ, xây dựng một Tịnh độ tại nhân gian bằng tinh thần Phật giáo Việt Nam, con người Việt Nam và Dân tộc Việt Nam”.
Tiếp đến, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Chủ tịch HĐTS GHPGVN thay mặt GHPGVN đọc văn tưởng niệm Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Chủ tịch HĐTS GHPGVN thay mặt GHPGVN đọc văn tưởng niệm
Sau tiếp Ông Vũ Đức Đam – Ủy viên Ban chấp hành TW Đảng, Phó thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam phát biểu bày tỏ niềm vinh dự khi được dự lễ tưởng niệm 710 năm Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết Bàn trên đất thiêng Yên Tử.
Ông Vũ Đức Đam – Ủy viên Ban chấp hành TW Đảng, Phó thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam phát biểu
Ông nói: cảm ơn GHPGVN nói chung và BTS GHPGVN tỉnh Quảng Ninh nói riêng, “tất cả các cơ quan đoàn thể, các cá nhân đã – đang và sẽ tiếp tục bằng những hành động thiết thực của mình để những điều tốt đẹp nhất của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông để lại tiếp tục được trao truyền, lấy đó làm nhân tố hết sức quan trọng để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, để đất nước Việt Nam của chúng ta tiếp tục phát triển nhanh và bền vững hơn. Điều quan trọng nhất là để tình yêu đồng loại, yêu hòa bình, yêu thiên nhiên được thể hiện trong mỗi việc làm của mọi người, mọi cơ quan. Nhất là trong điều kiện quá trình đổi mới hiện nay, bên cạnh việc khơi dậy những truyền thống văn hóa tốt đẹp, chúng ta cần hết sức bằng cả tấm lòng và bằng sự tuân thủ pháp luật để tất cả những biểu hiện gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo, gây mất ổn định xã hội hay những hành vi vì lợi ích của riêng mình mà xâm phạm tới lợi ích của cộng đồng thì phải cùng nhau đấu tranh để dẹp bỏ”. Ông mong rằng tất cả mọi người đều có tấm lòng và trí tuệ để cùng nhau tiếp bước viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam, xứng đáng là con cháu của Phật hoàng Trần Nhân Tông, là con Lạc cháu Hồng.