CÁCH LY TOÀN XÃ HỘI – XU THẾ HƯỚNG NỘI TRONG PHẬT GIÁO

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH HÀ NAM
Phật học Phật học

CÁCH LY TOÀN XÃ HỘI – XU THẾ HƯỚNG NỘI TRONG PHẬT GIÁO

Trong Phật giáo, có hai xu thế tựa hồ như mâu thuẫn nhau nhưng thật ra thì bổ sung, hỗ trợ nhau. Cả hai xu hướng đó đều có ý nghĩa với cuộc sống con người hiện đại.

Thứ nhất, là xu thế hướng ngoại, Phật giáo thường gọi là lợi hạnh độ sinh. Lợi hạnh là hạnh nguyện làm tất cả mọi đều lợi ích cho tất cả mọi loài hữu tình. Độ sinh là giải thoát mọi loài hữu tình khỏi nổi bất hạnh, mà lớn lao nhất là sống chết luân hôi. Thực chất xu thế hướng ngoại này là đồng nhất cá nhân mình với toàn thể mọi người, mọi loài chúng sinh trong thế giới và vũ trụ.

Thứ hai, là xu thế hướng nội, cái mà đạo Phật thường nói là quay trở về với cái mà xưa nay thường gọi bộ mặt thật của chính mình, con người thật của mình.

Cả hai xu thế trên tiêu biểu cho hai hạnh lớn của Phật giáo là Trí Tuệ và Từ Bi. Ở bài viết này, người viết xin phân tích tương đối hai xu thế đó của Phật giáo, tin rằng có một giá trị hiện sinh lớn (great existential dimension) trong nạn dịch COVID – 2019 và đối với thời hiện đại của chúng ta.

  1. Xu thế hướng ngoi: mt cuc sng hoàn toàn vô ngã v tha, tích cc, năng động, phong phú.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Suragama), đã minh họa thuyết vô ngã của đạo Phật bằng ảnh dụ sinh động và cụ thể:

“Cũng như trăm ngàn biển cả trong lặng mênh mông, mà bỏ đi tất cả rồi chấp nhặt một bọt nước là mình…”

Chấp thân này là ta cũng như biển cả quên mình là biển cả rồi chấp nhặt một bọt sóng là biển cả.

Con người, sau một quá trình tìm kiếm lâu dài không có kết quả, cuối cùng biết trở về với chính mình, thì bỗng thấy cái gọi là mình, là ta, thực ra không tồn tại. Cả thân và tâm chỉ là một dòng, một chuỗi hiện tượng tâm và sinh lý chuyển biến liên tục trong từng sát na một, và ở bên trong hay là ở đằng sau dòng chảy liên tục đó, không có một cái gì gọi là cái Ta vĩnh cửu.

Con người khi đã giác ngộ lý tưởng vô ngã của nhà Phật, Phát hiện thấy mình không phải là cái bọt nước mà là cả đại dương rộng lớn, mình là đồng một thể với tất cả mọi người, mọi chúng sinh, của tất cả mọi loài. Sống như vậy, đạo Phật gọi là sống theo lý tưởng Bồ Tát (Bodhisattva ideal). Đó là lý tưởng sống hòa nhập vào mọi người, mọi chúng sinh, đúng theo nguyên lý mọi người, mọi chúng sinh đều bình đẳng, cùng một thể.

Tin tưởng rằng, là Phật tử (tín đồ Phật giáo), với xu thế hướng ngoại như đã trình bày ở trên đây, là một lý tưởng sống có giá trị hiện thực rất lớn, đối với thế giới hiện đại, vì các tôn giáo lớn trên thế giới đều có thể chấp nhận và thực hiện lý tưởng đó của đạo Phật trên những mức độ khác nhau, với những tên gọi khác nhau:

Đạo Gia Tô nói “Hãy thương người như thể thương mình”.

Đạo Hồi nói “Người Hồi giáo trong bốn biển đầu là anh em”.

Đạo Phật nói “Hãy yêu thương tất cả chúng sinh như mẹ hiền yêu thương đứa con một của mình”.

Tất cả những lời lẽ khác nhau đó, đều nói lên một nội dung thống nhất là tình thương rộng lớn, bao trùm lên mọi người, không phân biệt chủng tộc, mà da, giới tính…Tình thương rộng lớn đó phải là nét đặc trưng nội bậc nhất của nét trật tự đạo đức mới, rất cần thiết cho thế giới và xã hội hiện đại hôm nay.

Thiếu sót cơ bản của con người hiện đại là hướng ngoại quá nhiều và đã đánh mất con người thật của chính mình, mà chạy theo cái  Ta duyên hợp gỉa có với những khao khát thèm muốn không bao giờ có để thỏa mãn. Con người hiện đại ở xã hội càng văn minh, như phương Tây, có thể sống một đời sống tiện nghi vật chất thật đầy đủ, nhưng chỉ thiếu một cái là hạnh phúc, là an ổn nội tâm để thật sự thụ hưởng tất cả mọi của cải tiện nghi vật chất đó.

Đúng vậy, của cải và tiện nghi vật chất, lạc thú vật chất, không thể là mục đích tự nó, và cứu cánh được. Bởi vì, con người phải có sự bình tĩnh và thanh thản tâm hồn mới có thể tận hưởng những lạc thú vật chất hay tinh thần. Thế nhưng, từ lâu do thiên nhiên và xã hội hiện đại đã đánh mất sự bình tĩnh và thanh thản của tâm hồn, là điều kiện tiên quyết và cơ bản của một hạnh phúc chân chính và thật sự.

Ngay cả thời Hy Lạp cổ đại, Socrates đã vạch ra tất cả sự vô nghĩa lý của một lối sống tôn thờ khoái lạc vật chất như là độc nhất và tối thượng. Chúng ta có thể đọc lời phê phán đó của Socrates trong bài đối thoại Phillebus của Plato. Trong cuộc đàm thoại. Socrates đã dẫn đối phương của mình là Protarchus đến kết luận vô lý này là con người chỉ cần hưởng lạc thú tối đa, ngoài ra không cần biết gì hết, kể cả lý trí, sự thông minh, trí nhớ, kiến thức và quan niệm đúng đắn. Nghĩa là theo Protarchus con người miễn là hưởng được lạc thú tối đa, còn thì không cần gì nữa hết, kể cả sự thông minh, lý trí…

Socrates nói: “Như vậy, thì không có trí nhớ thì làm sao ông nhớ được ông đã được hưởng lạc thú, bởi  lẽ ngay sau khi ông hưởng lạc thú, ông không còn nhớ gì được hết. Và hơn nữa, vì ông cũng không có quan niệm đúng đắn, ông cũng không nghĩ được rằng ông đã được hưởng lạc thú. Và bởi vì ông cũng thiếu khả năng lý trí, ông cũng mất khả năng nhận thức được rằng ông sẽ còn được hưởng lạc thú trong tương lai. Ông phải sống cuộc sống của con sò hay là của những con vật sống nào khác mà trú xứ là đáy biển, mà linh hồn bị dấu kín ở trong vỏ cứng. Có phải tất cả là như thế chăng, hay là chúng ta có thể nghĩ một cái gì khác?”

Protarchus: Chúng ta không thể nghĩ gì khác được.

Socrates: Nếu vậy thì phải chăng chúng ta có thể nghĩ rằng một lối sống như thế là đáng được mong ước?

Protarchus: Này Socrates, lập luận của ông làm tôi điếc cả tai...[1]

Dẫn chứng cuộc đàm thoại của Socrates để nói lên rằng con người hiện đại, sống một cuộc sống văn minh vật chất cao ở cuối thế kỷ XXI này vẫn có thể tiếp tục suy nghĩ  như Protarchus ở Athens cách đây gần 3000 năm chăng?.

Tất nhiên, đạo Phật một mặt lên án cuộc sống chạy theo những dục vọng vật chất, mặt khác cũng không phải đề cao cuộc sống nghèo đói, kham khổ, đạo Phật lại càng phê phán lối tu hành hạ xác thân, ép xác khổ hạnh, chỉ làm cho thân người bệnh hoạn và đầu óc con người u mê. Đức Phật khuyên chúng ta tránh cả hai cực đoan chạy theo dục lạc vật chất và sống ép xác khổ hạnh. Đức Phật khuyến cáo học trò mình cũng như tất cả mọi người sống nếp sống lành mạnh, giản dị, hướng thượng, chói sáng đạo đức giới hạnh và trí tuệ, một nếp sống mà tất cả mọi người dù giàu hay nghèo, xuất gia hay tại gia, ở phương Đông hay ở phương Tây đều có thể sống hay hướng đến. Một nếp sống như vậy sẽ đem lại sự bình tĩnh nội tâm, sự sáng suốt của trí tuệ, giúp con người có thể thấy được sự vật như thật. Chính nhờ đó mà con người có thể sống hòa hài với bản thân và làm chủ bản thân, sống hòa hài với xã hội, với thiên nhiên. Và trong nhịp sống hòa hài đó, với bản thân, với xã hội và thiên nhiên, con người mới tìm thấy hạnh phúc thật sự, đó chính là xu thế hướng nội.

2.  Xu thế hướng ni: quay v con người tht ca chính mình

Chúng ta có thể suy nghĩ gì về cuộc sống thác loạn, chạy đua theo lạc thú vật chất đang là đặc trưng nổi bật của những xã hội có trình độ văn minh vật chất cao, và cả của những xã hội đang phát triển, nhưng bị nền văn minh đó làm cho mê hoặc và chói lòa. Có sức mạnh sâu kín gì nằm ở đàng sau những tệ nạn xã hội như ma túy, tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, mãi dâm, loạn dâm và bạo dâm, đồng tình luyến ái, bệnh tâm thần, nạn tự sát cá nhân hay tập thể v.v...

Ở đàng sau tất cả nếp sống thác loạn đó, là xu thế của con người bất hạnh muốn sống thoát khỏi cá Ta hạn hẹp và vị kỷ, muốn thoát khỏi một tâm trạng bất an và ưu tư dai dẳng, thường trực, mà tiếng Anh gọi bằng danh từ chung là anxiety. Nhưng vì sao lại có tâm trạng bất an và ưu tư thường trực đó, mà con người hiện đại lại muốn tìm sự lãng quên trong nếp sống thác loạn, đôi khi mất cả tính người?

Phải chăng là con người tưởng rằng, vì nội tâm đầy ưu tư và buồn chán, cho nên phải hướng ra bên ngoài để tìm lạc thú vật chất? Phải  chăng con người tưởng rằng, càng chiếm hữu nhiều của cải và tiện nghi vật chất, con người sẽ càng thêm được hạnh phúc, mọi nỗi ưu tư trong nội tâm sẽ được xóa bỏ.

Ảo tưởng này đâu có mới mẻ mà có tính muôn thuở. Ở Ấn Độ cổ đại, đã từng có triết phái duy vật Carvaka chủ trương như thế. Và ở thành phố Athens thời Socrates, có những triết gia thuộc phái ngụy biện (Sophists) cũng đã từng bênh vực cho một lối sống khoái lạc vật chất tối đa, như là một lối sống lý tưởng, xứng đáng được con người mơ ước.

Đạo Phật nói đó là ảo tưởng của những người khát nước mà còn ăn mặn, và càng ăn mặn càng bị khát nước. Đạo Phật vạch ra rằng, nỗi bất an và ưu tư nội tâm chỉ có thể giải quyết ở trong nội tâm, chứ không thể giải quyết ở bên ngoài. Phương pháp tu thiền của đạo Phật –mà người phương Tây quen gọi là đạo Phật Thiền (Zen Buddhism) chính là phương pháp giúp con người trở về với nội tâm mình để giải quyết một cách căn bản mọi nỗi ưu tư và bất an của nội tâm. Nội tâm chúng ta không khác gì mặt nước hồ bị những đợt gió dục vọng chạy theo ngoại cảnh làm cho nổi sóng và vẫn đục. Chúng ta ưu tư, chúng ta bất an chính vì chúng ta hằng ngày sống với cái nội tâm nổi sóng đó, trong khi cả lớp nước hồ sâu thẳm, trong lặng thì chúng ta bỏ quên như là xa lạ, không phải của mình.

Hôm nay, nhận được chỉ thị 16 của Chính Phủ cách ly 15 ngày, phải chăng đây là một thời gian quý giá cho mỗi chúng ta quay về với chính mình, sống gần với những người xung quanh và gia đình mình hơn, thấu hiểu về chính con người thật của mình hơn, thiết nghĩ đây là cơ hội cho chúng ta sống chậm lại, cơ hội cho mỗi chúng ta nhìn thấy chính mình thấu đáo hơn.

Trong lịch sử nước chúng tôi, có một ông vua mà giới sử học quốc tế thường biết đến như là một vị anh hùng đã lãnh đạo quân dân Việt Nam hai lần chiến thắng đội quân xâm lược Nguyên Mông vào thế kỷ XIII, đội quân đã từng làm mưa, làm gió trên các chiến trường châu Âu và châu Á thời bấy giờ. Ông vua đó là Trần Nhân Tông. Ông vua đó, sau khi đánh bại quân Nguyên Mông đã không chịu ở lại ngôi vua để tận hưởng vinh quang của chiến thắng, mà đã nhường ngôi lại cho con, xuất gia theo đạo Phật, trở thành vị Thiền sư lỗi lạc lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Từ những tác phẩm Phật học của ông, toát lên nhiều tư tưởng kỳ quặc. Một trong những tư tưởng đó là:

Bụt ở trong nhà,

Chẳng phải tìm xa,

Nhân khuẩy bổn nên ta tìm Bụt,

Cốc mới hay chính Bụt là ta.”

(Cư Trần Lạc Đạo Phú- hội 5)

Nghĩa là theo Trần Nhân Tông, con người tất cả chúng ta chính là Phật, và chính vì chúng ta quên mất cái bổn, cái gốc đó cho nên chúng ta mới là chúng sanh, có trí óc mê muội và thâm tâm đau khổ bất hạnh. Niềm ưu tư, bất an có thường trực trong nội tâm của chúng ta chính là bắt nguồn từ ở chỗ chúng ta quên mất con người thật của chúng ta là Phật, sống với con người giả của chúng ta là chúng sanh. Đạo Phật của Trần Nhân Tông cũng như của đời Trần nói chung là một đạo Phật hướng nội rất rõ nét, rất sinh động. Trên từ vua cho đến các quan lại, tướng lĩnh, binh sỹ, thường dân, nếu mọi người đều tin rằng mình là những ông Phật sẽ thành, do đó, ngay trong hiện tại phải sống xứng đáng với ông Phật ở trong mình, sống với những đức hạnh của Phật như là từ bi, trí tuệ, dũng khí vô úy ... thì hãy hỏi có giặc ngoại xâm nào, kể cả quân đội Nguyên Mông thiện chiến, có thể xâm phạm bờ cõi Việt Nam mà không bị đánh bại.

Cổ đức có câu:

Khổ hải vô biên,

Hồi đầu thị ngạn.”

Nghĩa là

Biển khổ mênh mông,

Nhưng quay đầu lại thì sẽ thấy bờ.

Do vây, thời gian cách ly này là phương pháp hữu ích cho việc quay đầu lại hướng về nội tâm, quay đầu lại sống với con người thật của chính mình, và con người thật đó chính là Phật với đầy đủ hai đức hạnh trí tuệ và từ bi. Đó chính là phương thuốc mà đạo Phật có thể cống hiến cho con người hiện đại, con người hiện nay đang lãng đãng như khách phong trần trên khắp các nẻo đường, tìm kiếm sự thật và hạnh phúc, tuy biết rằng sự tìm kiếm đó là vô vọng. Đạo Phật nói: Thôi hãy đừng tìm kiếm đâu xa nữa! Hãy trở về với  chính mình, với con người thật của mình.

Trần Nhân Tông, nhà vua kiêm Thiền sư mà có hai câu thơ chữ Hán:

“Gia trung hữu báu hưu tầm mích,

Đối cảnh vô tâm mặc vấn thiền.”

Nghĩa là

Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm,

Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền.

Trong nhà có sẵn ngọc, không cần tìm kiếm đâu xa nữa, cũng như nói chính mình là Phật rồi, thôi đừng cầu Phật, tìm Phật ở đâu xa nữa. Và vì đã là Phật, cho nên ngoại cảnh dù có biến đổi, hấp dẫn như thế nào cũng không thể ảnh hưởng chi phối. Nội tâm con người vẫn bình lặng. Đã bình lặng thì sáng suốt, không gì không thấy, không biết. Và đó chính là Thiền rồi, cũng không cần học hỏi Thiền làm gì.

Mục đích của Thiền không ở ngoài việc chỉ bày cho chúng ta những phương pháp thích hợp để làm cho bề mặt của nội tâm ta không còn nổi sóng, không còn giao động, để có thể nhìn sâu vào những lớp nội tâm rộng lớn, trong lặng vốn là cái tâm thật của chúng ta, chân tâm của chúng ta.

Nội tâm con người, từ bề mặt cho đến những bề sâu, một khi được làm cho vắng lặng, thì sẽ trong sáng như gương, sẽ là nguồn an lạc và hạnh phúc, sẽ là chân lý, là ánh sáng, là Niết Bàn. Phương pháp tu thiền rất nhiều, tụng kinh cũng là thiền, niệm Phật cũng là Thiền, trì chú cũng là Thiền,…,vì bản tính con người muôn vàn sai biệt, người thì nặng căn, người thì lợi căn, có người nặng về tham, có người lại sân và si nhiều. Hay là ngược lại. Thế nhưng mục đích cuối cùng phải đạt tới của mọi phương pháp tu thiền là an tịnh nội tâm, làm vắng lặng và trong sáng nội tâm, biến nội tâm từ giao động trở thành yên tịnh, từ mê mờ trở thành sáng suốt. Tâm sáng suốt, đó chính là trí tuệ Bát nhã, chính là cái mà sách Anh ngữ thường gọi là trí tuệ siêu việt (transcendental wisdom). Có được trí tuệ Bát nhã, thì tức là thành Phật, bậc Thánh nhìn thấy tất cả, biết hết tất cả (omniscent).

Nếu tất cả mọi người đều chấp nhận và sống nếp sống như vậy, thì cả thế giới chiến tranh và bất ổn về bệnh dịch lúc này này sẽ sớm trở thành một thế giới hòa bình và hạnh phúc, kỷ nguyên sắp tới đây sẽ trở thành kỷ nguyên của con người, kỷ nguyên trong đó các giá trị nhân bản là thước đo, là chuẩn mực của mọi giá trị. Hạnh phúc hay không hạnh phúc của con người sẽ trở thành sợi chỉ đỏ, con đường ranh giới phân biệt rõ ràng thật hay giả, thành công hay thất bại, chánh kiến hay tà kiến, một kỷ nguyên trong đó, con người trở thành vị quan tòa tối thượng.

Xu thế hướng nội, quay về với con người thật của chính mình không nên bị hiểu nhầm là tiêu cực, tự thu mình trong tháp ngà. Trên đây tôi có nói đến một xu thế khác của đạo Phật, xu thế hướng ngoại dẫn tới một lối sống vị tha tích cực, vì lợi lạc của tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Trong kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy, có ghi những lời dạy của đức Phật khuyến cáo học trò mình phải tích cực hoằng hóa độ sanh, và nhất là thực hành bốn nhiếp pháp để gần gũi chúng sanh, mưu lợi lạc cho chúng sanh, gần gủi mọi người, đem lợi lạc cho mọi người.

Bốn nhiếp pháp đó là ái ngữ, tức là lời nói dịu hiền dễ nghe, bố thí, tức là giúp đỡ chúng sanh trên các mặt cung cấp của cải vật chất, giảng giải đạo lý, giáo pháp của đức Phật, che chở, bảo vệ chúng sanh nếu cần thiết, và tùy hỷ với tất cả niềm vui của chúng sanh. Và cuối cùng, là đồng sự, tức là cùng làm việc với chúng sanh v.v... Bốn nhiếp pháp, ái ngữ, bố thí, lợi hạnh, đồng sự là như vậy, chúng thể hiện nếp sống vị tha tích cực của đạo Phật (xem Tăng Chi I, trang 387, bản dịch của Thích Minh Châu).

Cùng với bốn nhiếp pháp, người Phật tử giác ngộ về thuyết vô ngã còn ra sức tu tập, thực hành bốn vô lượng tâm, tức là mở rộng lòng từ, lòng bi, lòng hỷ, lòng xả bao trùm tất cả chúng sanh khắp mười phương. Đồng thời cũng tu tập thực hành sáu hạnh Ba la mật, tức là bố thí, giới hạnh, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Sáu hạnh này, được tu tập và thực hành đến chỗ hoàn hảo, triệt để sẽ giúp cho những người sống theo lý tưởng Bồ-tát, có thể vứt bỏ hoàn toàn cái Ta nhỏ hẹp, vị kỷ, sống hòa nhập vào tất cả chúng sanh, tất cả mọi người.

Đó là nếp sống của những người Phật tử giác ngộ về lý vô ngã của đạo Phật. Nếp sống đó không có gì là tiêu cực thụ động.  Trái lại, nó rất tích cực, năng động và phong phú, đa dạng. Mong rằng nó tỏ ra hấp dẫn đối với con người hiện đại trong thời gian cách ly bệnh dịch COVID - 19, đối với xã hội hiện đại hôm nay.

 Tiểu Ni Viên Hiếu. 21h ngày 12/4/2019.

Thời gian cách ly theo chỉ thị 16 của Chính Phủ, ngày thứ 12

 

 

 

 

 


[1] Socrates: Well, then, besides this, not having memory,you must also be unable to remember even that you ever were pleased, of the pleasure which fall upon you, at the moment not the last vestige must afterwards remain. And again, not having true opinion, you cannot think that you are pleased when you are,and, being bereft of your reasoning faculties, you cannot even have the power to reckon that you will be pleased in the future. You must live the life of an oyster or of some other of those living creatures, whose house is the sea and whose souls are cencealed in this.

Protarchus: How can we?

Socrates: Well,can we think such a life desirable?

Protarchus: Socrates, your reasoning has left me utterly dumb.

Video
Tin nhiều người đọc
Back to top