Ngài sinh ngày 15 tháng 7 năm 1950 (1-6-Canh Dần) tại làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm, Hà Nội, thân phụ là cụ ông Phùng Xuân Chỉ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thìn. Khi Hoà Thượng chưa tròn một tuổi thì thân phụ đã sớm quy Tây. Ngài chỉ còn dựa vào tình thương yêu của thân mẫu và sự đùm bọc của bà nội cùng bà con lối xóm. Cảnh sinh ly tử biệt ấy đã làm cho Ngài sớm nhận ra lẽ vô thường của kiếp nhân sinh. Noi gương hai người cô ruột là sư cụ Ðàm Mậu và sư cụ Ðàm Ngọ trụ trì chùa Bi, tỉnh Vĩnh Phúc, Thượng toạ quyết chí xuất gia cầu Ðạo.
Sáng nay làng xóm tiễn chân đi,
Nhìn lại quê hương biết nói gì.
Vầng ác chưa lên còn tối đất,
Bụi hồng chửa bợn tấm thanh y.
Tuy tuổi đời còn rất nhỏ nhưng chí khí xuất trần của Thượng toạ rất mãnh liệt qua vần thơ tạ từ chú đi tu vào năm 12 tuổi:
Chú ơi! xin chú hiểu lòng tôi,
Giờ phút chia tay đã đến rồi.
Vẫn biết gia phong cần giữ đấy,
Nhưng vì chân lý phải đành thôi.
Cỏ hoa tuế nguyệt còn thay đổi,
Dâu biển xưa nay vẫn lở bồi.
Nay nếu không đi cầu Chính Pháp,
Sợ sau sẽ phải hối muôn đời.
Chú ơi! ân nghĩa cháu không quên,
Nguyện chứng chân như sẽ báo đền,
Chú ở lại nhà xây tổ nghiệp,
Cháu đi cầu Pháp cứu oan khiên.
Kẻ vun cội Phúc cho tươi tốt,
Người đắp nền Nhân thật vững bền.
Chú cứ yên tâm đừng có ngại,
Cháu thề quyết chí gắng tu nên.
Năm 15 tuổi Ngài được Sư tổ Thích Thanh Chân, động chủ Hương Tích, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Ðức, tỉnh Hà Tây thu nhận làm đệ tử. Năm 19 tuổi, Thượng toạ được Hoà thượng Bản Sư cho thụ giới Sa Di. Sau khi thụ giới Sa Di, Thượng toạ càng tỏ ra tinh tiến hành Ðạo nên năm 1972 Ngài được đăng đàn thụ Cụ túc, viên mãn Tam đàn Giới pháp tại Tỉnh Hội Phật giáo tỉnh Hà Sơn Bình.
Nhận thấy Thượng toạ có chí cầu học, siêng năng đèn sách, Hoà thượng Bản Sư kỳ vọng Ngài sẽ là Pháp khí trong Ðạo Pháp nên đã cho phép Thượng toạ xuống núi, theo học lớp Trung cấp Phật học tại chùa Quảng Bá và Quán Sứ, Hà Nội niên khoá 1973- 1976.
Tòa chùa mỹ lệ gữa kinh thành
Quán sứ lưu truyền rạng sử sanh
Phật pháp uyên dương dong đuốc tuệ
Tăng già hòa hợp nổi tu hành
Bao phen binh hỏa còn in dấu
Mấy lớp phong sương đã tảo thanh
Trong thời gian theo học tại chùa Quán Sứ, Hoà Thượng không những xuất sắc về mặt học vấn mà còn tinh nghiêm cả về Giới luật nên khi tốt nghiệp, được Giáo hội tuyển chọn vào Trường Cao Cấp Phật học Việt Nam (nay là Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội) Khoá I, niên khoá 1981- 1985. Năm l985, tốt nghiệp Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, Hoà Thượng trở về chốn Tổ, phụng sự Tam Bảo và bắt đầu hoằng dương Phật pháp.
Sau khi rời ghế trường Phật học, Hoà Thượng nguyện làm sứ giả của Như Lai, đem ánh sáng từ bi và giác ngộ của đức Phật thắp sáng thế gian này bằng tinh thần vô uý vị tha. Ngài luôn quan tâm đến việc đào tạo, giáo dục thế hệ Tăng Ni trẻ, coi đó là việc báo đáp thâm ân của chư Phật một cách thiết thực nhất. Vì vậy, ngài đã là Giáo sư của các Trường Trung cấp Phật học cũng như Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội.
Năm 1984, ngay khi còn theo học Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, đáp lời thỉnh cầu tha thiết của chính quyền và nhân dân địa phương, Hoà Thượng về nhận lãnh trách nhiệm trụ trì chùa Thầy - Thành tích của ngài Từ Ðạo Hạnh.
Năm 1985, với giới đức trang nghiêm và hạnh nguyện từ bi vô ngại, Ngài đã được Sư Tổ tức Hoà thượng Thích Thanh Chân tin tưởng trao truyền kế đăng Ðộng chủ Hương Tích.
Năm 1987, tại Ðại hội Phật giáo Việt Nam kỳ III, Ngài được tấn phong lên hàng Giáo phẩm Thượng Tọa và được suy cử vào Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tại Ðại hội kỳ III Tỉnh hội Phật giáo Hà Tây, Hoà Thượng được bầu làm Phó ban Trị sự Kiêm Chánh thư ký Tỉnh Hội.
Ðể tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, Hoà Thượng đã cùng Chư tôn đức thành lập Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây và Ngài được giao trọng trách làm Phó hiệu trưởng thường trực của Trường.
Trong các Ðại giới đàn, Hoà Thượng từng được cung thỉnh làm Yết Ma A Xà Lê sư, Tôn chứng sư.
Năm 1998, chùa Thầy được chọn làm Ðạo tràng An cư kiết hạ của tỉnh Hà Tây, Hoà Thượng được suy tôn làm Ðường chủ của Trường Hạ.
Năm 1993, Ngài được bầu làm Uỷ viên thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đồng thời là Phó ban Từ thiện Trung ương và là Uỷ viên ban Hoằng pháp Trung ương.
Từ năm 1998, Hoà Thượng được suy cử làm Phó ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự PG tỉnh Phú Thọ.
Ðể báo đáp công ơn thầy Tổ và trang nghiêm ngôi Tam Bảo, cùng với cương vị Trụ trì chùa Hương, Hoà Thượng đã đảm nhận chức vụ Trưởng Ban xây dựng và tôn tạo chùa Hương (năm 1947 chùa Hương đã bị giặc Pháp thiêu huỷ hoàn toàn). Ngài đã cùng với các cơ quan hữu quan, Phật tử và nhân dân địa phương trùng tu ngôi Ðại hùng Bảo điện, Tổ đường v.v... làm cho ngôi danh thắng chùa Hương trở thành uy nghiêm tráng lệ như ngày hôm nay. Ðồng thời Hoà Thượng còn kiêm nhiệm vụ Trụ trì chùa Thầy xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Nơi đây Hoà Thượng đã tu bổ nhiều hạng mục công trình, duy trì phát triển Thánh tích chùa Thầy ngày một trang nghiêm hơn.
Suốt đời, Hoà Thượng luôn tâm niệm: Chỉ có Trí Tuệ mới là sự nghiệp chân chính của người xuất gia nên khi về đến Phương trượng là ngài tập trung vào việc nghiên cứu, trước tác, dịch thuật. Ngoài các bài viết được đăng trên các báo, tạp chí, Ngài còn để lại nhiều tác phẩm, dịch phẩm như sau:
- Ðại bi nghi quỹ
- Chuẩn đề nghi quỹ
- Lục độ Ta ra
- Du già nghi quỹ
- Chùa Hương ngày nay
- Danh thắng chùa Thầy
- Truyện Phật bà chùa Hương
- Quan Âm Thị Kính
- Bầu trời cảnh Bụt
- Bức tranh quê hương
- Phạm võng Giới kinh
- Lược sử các tông phái Phật giáo
- Xuân Thu lễ tụng
- Văn khấn nôm truyền thống
- Khoá lễ Phổ môn
- Kỷ niệm chùa Hương
- Truy môn cảnh huấn
- Bút ký bên cửa trúc
- Thiền môn thi ký
Tuy phải điều hành Phật sự tại hai chốn danh lam lớn là chùa Hương và chùa Thầy, lại nhận lĩnh các chức vụ của Phật giáo tỉnh nhà cũng như của Giáo hội nhưng Thượng toạ cũng luôn tích cực tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương. Bất kỳ ở cương vị nào Thượng toạ cũng đều tận tâm, nêu gương tiêu biểu trong việc tốt đạo đẹp đời. Ngài nhận lĩnh các công việc, các chức vụ chỉ vì lợi ích cho số đông, cho đồng bào và dân tộc. Thượng toạ đã từng tham gia đại biểu Hội đồng nhân dân xã Hương Sơn, Hội đồng nhân dân huyện Mỹ Ðức và từ năm 1994, Thượng toạ là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây khoá V, VI và VII. Vào đời bằng hạnh nguyện Bồ tát, Hoà Thượng đã tham gia tích cực các công tác từ thiện xã hội để đem lại an lạc, hạnh phúc cho nhân sinh.
Do những công lao đóng góp cho Ðạo pháp và Dân tộc, Ngài đã được Ðảng, Nhà nước và Giáo hội tặng thưởng nhiều bằng khen và giấy khen như Huân chương Lao động hạng Ba, Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, Huy chương Vì sự nghiệp bảo tồn văn hoá dân tộc, Huy chương Vì sự nghiệp nhân đạo...
Trong suốt cuộc đời hoằng pháp độ sinh không mỏi mệt của mình, với tâm nguyện đem sự thực hành tâm linh lợi ích cho nhân dân Việt Nam, đặc biệt thắp sáng truyền thống Kim Cương thừa vốn đã từng được truyền vào Việt Nam cách đây hơn 1.000 năm, Ngài đã thiết lập mối nhân duyên Phật pháp với các bậc Thượng sư Truyền thừa Drukpa, truyền thống Phật giáo Đại thừa – Kim Cương thừa lừng danh với khả năng tu chứng và sự thực hành tâm linh thanh tịnh của các bậc Yogi giác ngộ, với di sản tâm linh quang vinh siêu việt suốt 800 năm phụng sự nhân loại và vũ trụ.
Trên bước đường tìm cầu giáo pháp
Truyền thừa Drukpa là truyền thống Kim Cương thừa, có tầm ảnh hưởng sâu rộng tại các quốc gia trên dãy Himalaya và hiện nay được hoằng truyền mạnh mẽ tại nhiều quốc gia trên thế giới. Từ rất sớm, trong những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước, Ngài đã phát nguyện kết nối với các bậc Thầy tu chứng của truyền thống Kim Cương thừa. Năm 1992, nhân duyên cát tường hội đủ, theo lời mời riêng của ông John (Đại sứ Anh tại Bhutan lúc bấy giờ), Ngài đã viếng thăm Vương quốc Bhutan để hạnh ngộ bậc Kim Cương Thượng sư truyền thừa Drukpa là Đức Giáo chủ Je Khenpo, và thọ nhận các Giáo pháp Quán đỉnh cốt tủy của truyền thừa Drukpa từ bậc Thầy của mình để hướng dẫn các đệ tử và Phật tử thực hành giáo pháp tinh túy và chân chính của Kim Cương thừa.
Hạnh ngộ Đức Giáo Chủ Je Khenpo tại Vương quốc Bhutan
Với sở học uyên thâm, giới đức trang nghiêm, từ bi vô lượng, những tưởng Thượng toạ còn trụ thế lâu hơn để hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử trên con đường tìm về bến giác. Nào ngờ cơn bạo bệnh chợt đến, Thượng toạ thuận lẽ vô thường trả tấm thân tứ đại lại cho trần gian mộng ảo để trở về thế giới vô tung bất sinh bất diệt vào lúc 18 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2002 (tức ngày 20 tháng 4 năm Nhâm Ngọ), trụ thế 53 năm, hạ lạp 32 năm, để lại tâm nguyện tha thiết hướng về phát triển của Truyền thừa Drukpa tại Việt Nam.
Tuy đã nhẹ gót thang mây, thâu thần trực vãng, nhưng với lòng từ bi vô lượng, Ngài vẫn âm thầm gia trì bảo hộ và kết nối các hành giả Việt Nam với bậc Kim Cương Thượng sư giác ngộ. Nhiều năm sau đó, vâng lời di huấn của bậc Thầy mình, các đệ tử của Ngài vẫn tiếp tục tìm cầu Giáo pháp từ các bậc Thượng sư giác ngộ, và cuối cùng họ đã hạnh ngộ Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa, Bậc lãnh đạo tâm linh tối thượng của Truyền thừa Drukpa tại Ladakh vào năm 2004.
Nhân duyên Phật Pháp đã hội đủ trong Đại lễ thành tựu giả Naropa, khi Đức Pháp Vương khoác lên mình Sáu Sức Trang Hoàng của Naropa. Theo lời thỉnh cầu tha thiết chí thành từ các đệ tử của Thượng toạ, Đức Pháp Vương đã hoan hỷ nhận lời quang lâm Việt Nam lần đầu tiên vào cuối năm 2007, và sau đó là vào các năm 2008, 2010, gieo những hạt giống giác ngộ và sự phát triển mạnh mẽ của truyền thừa Drukpa vì lợi ích vô số người dân và hữu tình Việt Nam.
53 năm tuy ngắn ngủi nhưng Thượng toạ đã sống một cách trọn vẹn, đầy ý nghĩa, đã hiến trọn cả cuộc đời cho Ðạo pháp, cho Dân tộc. Hạnh nguyện vô ngã, vị tha của Hoà Thượng luôn là tấm gương sáng, là ngọn hải đăng soi sáng cho Tăng Ni, Phật tử hôm nay và mãi mãi về sau!
Cảm niệm ân Thầy!
Thầy đi, chợt tỉnh cơn trường mộng,
Đời người vô thường vạn sự không
Tấu khúc hoàn hương bên bảo Tháp
Trời Tây rực sáng ánh cầu vồng.
Phướn lọng, hương trầm nhẹ thoảng bay
Tiếc Thầy! nghẹn khóc đọng mi cay
Ân sư hiển diện trong tâm thức
Trọn cuộc đời con đáp nghĩa Thầy!
“Truyền Thừa Áo Vải thề tiếp bước
Hàm thức vô minh quyết dẫn đường
Dù bao gian khó không lùi bước
Khoác áo Như Lai để tự cường”.
Vô úy
Drukpa Việt Nam.
(nguồn: bài có trích dẫn nguồn từ trang web Chùa Hương http://www.chuahuong.info.vn/)